TRẬT TỰ TỰ NHIÊN

NHỮNG BẰNG CHỨNG HIỂN NHIÊN CỦA VŨ TRỤ

Ngay cả khi chúng ta không thể nhìn thấu được Chúa, chúng ta vẫn có thể, qua những gì dưới đây, thấy được ít nhiều về việc cấu tạo thế giới và về những gì được trao tặng cho con người trong vũ trụ thần thánh này. Nhưng luôn với điều kiện là Chúa hiện hữu thật sự. Về điểm này, ngài nhiều lần nói tới những giá trị khách quan, tới « bằng chứng hiển nhiên của sự sống con người » và tới những sứ điệp của vũ trụ. Ngài bảo rằng, vấn nạn của thời đại tân tiến là con người đã xa lìa khỏi bằng chứng hiển nhiên đó. Có những thái độ tuyệt đối đúng và luôn đúng, có những thái độ khác đương nhiên sai và luôn sai, vì chúng đi ngược lại sự sống và con người. Nghĩa là thế nào ?

Ki-tô giáo quan niệm thế giới, trong từng chủng loại, được hình thành qua một quá trình tiến hoá rất phức tạp, nhưng nó chung quy lại cũng được phát sinh ra từ cội nguồn Logos (Lời). Như vậy, thế giới mang trong mình không những một lí trí toán học – không ai chối cãi được rằng thế giới được cấu tạo theo toán học -, nghĩa là một lí trí trung lập và khách quan, mà với tính cách là Logos, nó còn mang một lí trí đạo đức nữa.

Làm sao biết được điều đó ?

Chính tạo dựng giúp ta hiểu và chấp nhận điều đó. Ngay người ngoài Ki-tô giáo cũng hiểu được điều này. Song, nhờ đức tin bật mí, ta thấy được trong lí trí của tạo dựng không những chỉ có sứ điệp toán học, mà còn có cả sứ điệp đạo đức nữa.

Cái bật mí thứ nhất gọi là lương tâm. Lương tâm là nhận thức cội nguồn, nó cho ta biết có những sự việc không bao giờ là tốt cả. Giết một người vô tội, dù với lí do nào đi nữa, là điều đương nhiên ai cũng thấy sai, với điều kiện người đó không bị giáo dục sai lầm. Nói chung, tôn trọng sự sống là tốt. Hoặc giữ lời hứa, nghĩa là trọng tính chân thật và sự thật, cũng vậy.

Dĩ nhiên đó là những giá trị rất chung. Ta biết, Hans Küng* muốn hoà trộn chúng lại dưới dạng một nền đạo đức thế giới, nghĩa là lập chúng thành một bảng điều lệ chung áp dụng cho hết mọi người. Ta chưa cần tranh luận chuyện này ở đây. Nhưng dù vậy, nỗ lực của ông cũng hé cho ta thấy có một nét trong sáng nào đó trong tạo dựng, xuyên qua đó ta nhìn ra được những huấn lệnh của Tạo hoá. Và nữa, các hằng số giá trị chung - cho dù trong mỗi cái riêng còn chứa những khác biệt lớn - xưa nay vẫn hiện diện xuyên suốt qua các tôn giáo lớn và qua toàn bộ lịch sử tri thức của nhân loại. Hãy lấy nói dối làm thí dụ. Có người cho rằng, đôi lúc nói dối là đúng, là cần. Nhưng chẳng ai muốn xác định nói dối tự nó là đúng cả.

Để các bằng chứng hiển nhiên đó trở nên tác dụng và trong sáng, chúng ta cần được giáo huấn. Nhờ giáo huấn, các kiến thức tổng quát và chưa rõ ràng sẽ được cụ thể hoá và trở nên có thể thực hiện được. Việc giáo huấn đó là một phần của con đường dẫn ta tới Đức Ki-tô. Giáo Hội gọi con đường đó là sự soi sáng, bởi vì nhờ đó mà một cá nhân dần dần nhìn ra được rõ hơn về một điều nào đó đã tiềm tàng nơi mình.

Phải chăng những «bằng chứng hiển nhiên của vũ trụ», cái « hiến chương sự sống » đó (mà ta vẫn luôn hay quên và thường không nghĩ đến) đã nằm sẵn trong những huyền thoại xa xưa như lũ lụt, tháp Babylon, hay thành Sodom và Gomorrha ? Phải chăng sứ điệp của các câu chuyện đó quả là một thứ kiến thức sống còn cho cả nhân loại ?

Lạ thật, những câu chuyện đó có mặt khắp nơi trong lịch sử tôn giáo. Chúng hiển nhiên là những tiếng còi báo động. Chuyện lũ lụt có mặt trong nhiều vùng địa lí hoàn toàn biệt lập, không liên hệ gì tới nhau. Một cách nào đó, chúng nói lên một kinh nghiệm và nhận thức chung của nhân loại, một hồi tưởng còn đọng lại nơi con người. Ta có thể khám phá ra nhiều sứ điệp ẩn tàng trong các câu chuyện đó. Chẳng hạn việc xây tháp Babylon, ở đây con người muốn dùng kĩ thuật để kiến tạo cho mình một văn minh chung. Họ muốn dùng sức mình và khả năng xây dựng của mình để thực hiện giấc mơ – chính đáng - về một thế giới, về một nhân loại. Và qua tháp cao chạm trời đó, họ muốn chứng tỏ quyền năng mình và muốn nhảy vào lãnh vực thiên chúa. Trên căn bản, điều đó cũng giống như giấc mơ của nền kĩ thuật hiện nay: nắm được quyền năng thiên chúa và tìm ra được chốt khoá của thế giới. Như vậy, các hình ảnh trên đúng là những lời cảnh cáo vang lên từ nhận thức cội nguồn của ta.

Hãy bàn tiếp chuyện tháp Babylon. Ở đây, Kinh Thánh cho ta một thông tin lạ lùng «Chúa nói, xem kìa, chúng là một dân tộc, và chúng tất cả chỉ có một tiếng nói. Nhưng đó mới là khởi đầu công việc của chúng. Không có gì chúng muốn mà chúng không làm được. Thôi, Ta hãy xuống đó! Ta sẽ làm rối loạn ngôn ngữ của chúng, để chúng không thể nghe hiểu nhau nữa ». Nghe ra thật chuyên quyền.

Vâng, nghe như giọng ganh tị, cơ hồ Chúa không muốn để cho con người ngẩng cao đầu. Dĩ nhiên đây là một ngôn ngữ hình ảnh, rút ra từ kho văn hoá do-thái xưa. Một số yếu tố ngoại giáo lúc đầu vẫn còn hiện diện trong đó, nhưng qua những đợt giải thích chúng dần dần được gột bỏ hết. Vấn đề ở đây không phải là Chúa sợ con người trở nên quá lớn rồi giành ngai Ngài, nhưng Ngài thấy được ước vọng sai trái và tiềm năng tự huỷ của họ.

Có lẽ ta nên giải thích hình ảnh trên như thế này : Tháp Babel tượng trưng cho việc con người muốn chỉ dùng khả năng kĩ thuật để hợp nhất nhân loại và để vươn tới Chúa, trở thành như chính Ngài. Nhưng giờ đây Chúa nói cho ta biết, một hợp nhất trên căn bản như thế sẽ không vững, nó sẽ tạo ra hỗn-loạn.

Bài học đó có thể áp dụng cho ngày nay. Một mặt, thế giới hôm nay có sự hợp nhất đó. Trọng điểm của mọi thành phố đều giống nhau, dù ở Nam Phi hay Nam Mĩ, ở Nhật hay Mĩ châu, Âu châu. Đâu đâu con người cũng bận quần bò (Jeans), hát một thứ nhạc, cùng theo dõi một chương trình truyền hình và cùng chiêm ngưỡng những ngôi sao màn ảnh. Như thế, có thể nói, nhân loại có một thứ văn minh chung, kể cả một thứ thức ăn chung là McDonalds.

Thoạt nhìn, cảnh đồng phục đó là một thứ lực dung hoà khá hiệu nghiệm – cũng giống như cái ngôn ngữ chung khi xây Babel -, nhưng cùng lúc đó con người trở nên xa lạ nhau. Họ không tới gần nhau được nữa. Thay vào đó, ta thấy nổi lên các chủ trương độc lập vùng, các văn hoá chống đối nhau, ai cũng muốn mình chỉ là mình hoặc cảm thấy mình bị văn hoá khác đàn áp.

Có phải đó là một bản luận chứng chống lại nền văn minh chung không?

Đúng, bởi vì nó làm người ta mất nét riêng, mất nét đích thực của họ. Mất thông tin chiều sâu giữa người với người. Thông tin này không thể tạo ra được bằng những cách cư xử bề ngoài, phiến diện và bằng những máy móc kĩ thuật giống nhau. Nếu người ta chỉ hợp nhất trên bề mặt đó, thì cùng lúc thâm tâm họ sẽ chống lại sự đồng phục, vì họ nhận ra chính sự đồng phục đó làm cho họ bị nô lệ.

Có thể nói, dạng thống nhất và tư tưởng muốn làm chủ thế giới cũng như làm chủ sự sống theo kiểu Babel của con người cần phải xét lại. Đây chỉ là một thứ hợp nhất giả hiệu, một thứ giả nâng con người lên mà thôi. Thật ra nó cướp đi chiều cao và độ sâu của con người. Ngoài ra, nó cũng biến con người thành nguy hiểm, vì một mặt con người có thể làm được rất nhiều chuyện, nhưng mặt khác khả năng đạo đức của họ không tương ứng được với khả năng kĩ thuật. Sức mạnh đạo đức không lớn kịp với khả năng hành động và đập phá, mà con người đã tạo ra. Đó là lí do, tại sao Chúa ra tay chống lại thứ hợp nhất kia và mở ra một loại hợp nhất hoàn toàn khác.

Ngài muốn nói gì ?

Với ki-tô hữu chúng ta, Tân Ước và Cựu Ước luôn là một. Các sách Cựu Ước là bước đầu. Theo xác tín của ta, các sách đó không thể hiểu, nếu ta không đọc tiếp bước thứ hai. Ta cũng sẽ thấy điểm này trong các chương sau, khi bàn đến liên hệ giữa Adam và Đức Ki-tô và qua các thí dụ khác. Chúa đã mở ra một mô hình hợp nhất qua diễn tiến câu chuyện ngày lễ ngũ tuần. Mô hình đó là đối cực của Babel, chỉ nhờ nó ta mới hiểu được Babel. Lúc đó, các tông đồ tuy không nói chung một thứ tiếng, nhưng tất cả đều hiểu nhau. Vẫn giữ đa dạng, như giờ đây sự hợp nhất con tim đã tạo thành một hợp nhất nội tâm.

Mô hình ngũ tuần đối lại với Babylon : một sự hợp nhất vẫn bảo tồn được kho tàng của nhân loại. Chúa muốn hợp nhất. Đó là mục tiêu của toàn bộ hành động của Ngài trong lịch sử; đó là lí do xuống thế của Đức Ki-tô; đó là lí do Ngài lập Giáo Hội. Nhưng sự hợp nhất mà Ngài muốn phải có một độ sâu và một tầm cao khác.

Lời cảnh báo của Babylon khiến ta phải nghĩ tới cuộc cách mạng điện tử hiện tại, một cuộc cách mạng làm thay đổi và đảo điên thế giới như chưa từng có. Xem ra chúng ta muốn tạo một vũ trụ hoàn toàn mới. Những hiện thực trên mạng lưới và những cái gọi là công ti thương mại điện tử không còn chỉ là trò chơi giải trí, mà đã trở thành một trò chơi ăn thua đủ với rất nhiều tiền, với quyền lực và với kinh tế quốc dân, chúng nắm trong tay số phận của hàng triệu con người.

Và thêm nữa : Ngày nay, đa phần dân tây phương mất nhiều thì giờ cho máy móc điện tử hơn là cho việc tiếp xúc với thực tế « thường nhật », nghĩa là tiếp xúc với con người và thiên nhiên. Những thực tế ảo trên mạng đang thay thế cho các thực tế thường nhật. Càng ngày, chúng ta buộc phải bỏ thêm công sức ra để chống trả lại những hình ảnh thôi miên trong cái thế giới hợp nhất đó.

Ở đây, nhờ diễn tiến lịch sử, ta lại nhận ra được những trực giác của một hình ảnh, mà trước đây ta không thể nghĩ tới được. Dĩ nhiên, đó không phải là nghĩa chữ của nội dung câu chuyện Babylon. Song, nếu ta đọc nó với ánh sáng kinh nghiệm, ta sẽ nhận ra cái trực giác chứa đựng trong đó, nó cụ thể hoá ra trước mắt ta ngày hôm nay. Nhờ đó, ta hiểu được ý nghĩa của những biến chuyển hiện tại, hiểu được tại sao việc tạo nên thứ thống nhất kia là một mối nguy.

Có thể so sánh một hình ảnh huyền thoại lớn khác của Kinh Thánh, đó là lụt hồng thuỷ, với những thứ lụt khác trên thị trường tư bản: lụt hình ảnh khích dâm, lụt tuyên ngôn, lụt quảng cáo… không ?

Nước cũng là một hình ảnh mang nhiều chiều kích. Nước luôn có hai nghĩa. Với nghĩa là nguồn, là mưa, thì đó là một quà tặng, một yếu tố cần cho sự sống. Khi nó mang hình ảnh đại dương hay lũ lụt, thì đó lại là mối nguy cho trái đất, nó có thể nuốt luôn sự sống. Lụt hồng thuỷ như vậy là biểu tượng nguyên mẫu cho những thế lực phá hoại, chúng vùi chôn sự sống, xoá đi biên cương bảo vệ sự sống mà Chúa đã vạch ra. Đê vỡ cuốn theo sự sống. Nhìn như thế, thì cơn hồng thuỷ vẫn là một hình ảnh rất nhiều nghĩa đối với con người. Bao nhiêu cảnh tượng ta thấy ngày nay : lũ lụt, đê vỡ, phá hoại sự sống, phá hoại văn hoá, phá hoại con người.